Bảo Giang (Danlambao) - “Nếu Cộng Sản miền Bắc chiếm được miền Nam, thì toàn thể nước Việt Nam sẽ trở thành quận, huyện hay tỉnh nhỏ của Trung cộng! Yếu tố còn lại (sự hình thành, tổ chức) chỉ là thời gian”. (TT Ngô đình Diệm. Đồng Tâm, Tuy Hòa ngày 17-9-1955). Lời công bố này sẽ đi về đâu?
1. Những diễn tiễn sau lời tuyên bố của TT Ngô đình Diệm.
Điểm qua những dòng mực cũ. Ai cũng biết, với chủ trương “dân vi qúy, quân vi khinh…” TT Ngô đình Diệm đã khai sinh ra nền Cộng Hòa tại miền nam Việt Nam. Cuộc khai sinh này là dấu chấm hết cho các triều đại phong kiến Lý, Trần, Lê, Nguyễn… và mở ra một nếp sống mới, một hướng đi mới cho đất nước và cho dân tộc.
Với chủ trương này, trước hết, những thành phần phá hoại, phản bội lại cuộc sống của dân sinh và của đất nước như tập đoàn Cộng sản Hồ chí Minh bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, chúng không còn tìm ra chốn dung thân ở tại miền nam Việt Nam. Từ đó, chúng bị co cụm, phân tán thành từng toán nhỏ, chờ chết. Không còn sức phá hoại cuộc sống an bình, no ấm của người dân. Trong khi đó, mọi tầng lớp dân sinh dần bước vào cuộc sống của đất nước có tổ chức, có kỷ cương. Người người có cuộc sống ổn định và có cơ hội đồng đều để phát triển về nhân cách và mức sống. Các trường học mở ra, già trẻ đều hân hoan đến trường, giúp xã hội thăng tiến. Các khu dinh điền được thiết lập, khai thác, tạo cho đất nước một bộ mặt rất sinh động. Chỉ trong 10 năm, miền nam Việt Nam từ nếp áo thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, không chính lệnh dần trở nên cường thịnh, bước lên vũ đài quốc tế.
Giữa lúc người người hân hoan bước vào vận hội mới của dân tộc, bất hạnh nở hoa. Chính phủ do TT Diệm lãnh đạo đã bị loạn tướng Minh, Khiêm, Đôn, Đính, Xuân, Mậu… nhận tiền ngoại làm đảo chánh. Chúng đã sát hại ông trong xe thiết giáp M113 cùng với bào đệ của ông là Ngô đình Nhu vào ngày 02-11-1963. Có thể nói, cái chết của ông đã mở ra con đường đưa miền nam đến ngày 30-4-1975. Từ đây, nước mắt người dân Việt luôn trào trên mảnh đất cũ!
Sử còn ghi, sau khi TT Diệm bị sát hại, Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền nam. Tạo cơ hội cho Hồ chí Minh vươn lên trong dối trá với khẩu hiệu “đánh Mỹ cứu nước”! Đến sau mùa hè đỏ lửa 1972, Hoa Kỳ triệt thoái quân đội khỏi miền nam VN theo Hiệp định đình chiến Paris. Cuộc chiến vẫn không dứt. Trái lại, nó trở nên tàn khốc hơn. Khi gió mùa xuân 1975 chưa đổi, cộng quân tiến chiếm Ban mê Thuột, khởi đầu cho cuộc giông bão tại miền Nam. Rồi Sài Gòn bỏ cuộc vào ngày 30-4-1975. Từ đây, nước Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay của Cộng sản bắc Việt.
II. Sự nghiệp Cộng sản trên đất Việt.
Vào ngày 14-9-1958, chỉ sau 4 năm ký hiệp định Geneve (1954), Phạm văn Đồng nhân danh Thủ tướng của nước VNDCCH, nhận lệnh từ Hồ chí Minh chủ tịch nhà nước, ký giao nộp hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam cho Tàu như là phần trả nợ chiến phí. Cuộc ký kết này không tự nhiên mà có, nó đã được Ung văn Khiêm (1956) thứ trưởng ngoại giao nhắc đến, sửa soạn dư luận trước đó hai năm. Y phát biểu trước mặt đại diện của TQ: “theo lịch sử thì Trường Sa và Hoàng Sa là của Trung quốc". Sau đó, vào năm 1999 đường biên giới giáp ranh với TC cũng được nhà nước cộng sản dưới trào Nguyễn văn Linh, Lê khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Nguyễn mạnh Cầm, Phan văn Khải… vẽ lại (để lấy tiền riêng?) và nhường thác Bản Giốc, ải Nam Quan, núi Lão Sơn và bờ biển Tục Lãm là nhà của Việt Nam thành ra đất của Trung cộng.
Sau chuyện đường biên giới, một thế hệ bán nước mới vươn lên với những tên tuổi nổi trội: Nông đức Mạnh, Võ văn Kiệt, Lê khả Phiêu rồi Nguyễn phú Trọng, Trương tấn Sang, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn sinh Hùng, Hoàng trung Hải, Uông chung Lưu… phò tá TC tự tung tự tác trên khắp mọi phần đất nước của Việt Nam. Từ những nơi được gọi là đấu thầu xây dựng cơ sở, cầu đường, nhà máy đến khai thác khoáng sản, hay thuê mướn rừng đầu nguồn cho đến những khách sạn, hàng quán, các cơ sở kinh doanh, nóc gia tư nhân, cửa nguồn, bãi biển thuộc quyền quản lý của người Tàu (Trung cộng) mọc lên, nằm rải rác trên mọi phần đất từ bắc chí nam của Việt Nam. Nó mọc lên nhiều đến nỗi chính nhà cầm quyền CS ngày nay cũng không thể kiểm tra được tổng số người cũng như các cơ sở hàng quán, nhà cửa của họ nằm trên giải đất của Việt Nam là bao nhiêu. Tệ hơn thế, có rất nhiều khu dinh cơ, khai thác của Tàu nằm trên đất nước Việt Nam mà các cấp quyền ở nơi đây, từ cao nhất đến nhỏ nhất, đều không được phép bước đến.
Trong khi đó, vào thời TT Diệm, Chính Phủ ban hành Dụ số 53 ngày 06/9/1956, nghiêm cấm ngoại kiều, nếu không có quốc tịch Việt Nam, thì không được làm 11 nghề như: Buôn bán thịt, cá, Chạp phô (Tạp Hóa), than củi, nhiên liệu, tơ sợi, làm trung gian mua bán, buôn bán kim loại, lương thực, hành nghề xay gạo, chuyên chở hay dịch vụ. Thành phần kỹ nghệ gia hay thương gia người Hoa, nếu lai Việt, hoặc có vợ chồng Việt, thì vẫn được tiếp tục kinh doanh, nhưng phải đăng bạ dưới tên vợ, chồng hay tên bà con, người Việt. Những điều nghiêm cấm này không thi hành với người Hoa có quốc tịch Việt Nam. Hỏi xem, việc buôn bán làm ăn còn khó khăn là thế, nói chi đến quyền thủ đắc bất động sản như đất đai, cửa sông, bãi biển của ngoại kiều.
Qua sự việc này, nếu bạn là người có chút công tâm, kể cả trường hợp không biết đọc, không biết viết, không bị mù lòa hay câm điếc, hãy tự trả lời theo tính nhân văn, nhân bản của con người xem, TT Ngô đình Diệm hay Hồ chí Minh là kẻ bán nước? Ai là kẻ rước voi về dày mả tổ?
III. Bản án cho dân tộc Việt Nam từ Hội Nghị Thành Đô 1999?
Thật ra vấn đề mất đất, mất biển hay chuyện nhà cửa, kinh doanh, đất đai của người Tàu trên đất Việt hôm nay đã là điều người Việt Nam không bao giờ tưởng tượng ra được. Tuy thế, nó vẫn chưa phải là nỗi lo âu đong đầy trên đôi mắt, chất ngập trong tim lòng người Việt Nam, nếu đem so sánh nó với dòng chữ ngắn: Hội nghị Thành Đô. Hỏi xem, cái Hội Nghị Thành Đô 1999 kia ghi chép những gì mà ghê gớm đến như thế?
Đến nay, hầu như mọi người đều trắng mắt chờ đợi hay thao thức hỏi nhau về những công đoạn, chi tiết được ghi chép trong Hội Nghị Thành Đô, là nơi đã hun đúc khí huyết của các nhà lãnh đạo Việt cộng bán nước, giết dân chuyên nghiệp như Phạm văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn văn Linh, Lê khả Phiêu, Nguyễn mạnh Cầm… đã tâm đầu, ý hợp, kính dâng lên Giang trạch Dân, Lý Bằng, Lương quang Liệt, Diệp tuyến Ninh, Dương đắc Chí, Hứa thế Hữu của Trung cộng là những cái gì, ra sao?
Kết quả, chỉ nghe nói về số phận Việt Nam sẽ làm nô lệ cho Tàu sau năm 2020, nhưng chưa tìm ra một chỉ dẫn nào cụ thể, ngoài lời công bố của Nguyễn văn Linh “Tôi cũng biết làm như thế, dựa vào Trung quốc sẽ mất nước. Nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng” Lời công bố này mang ý nghĩa gì? Tại sao Nguyễn văn Linh lại nói: “Làm như thế là mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng?" Có phải họ đã giao Việt Nam cho Trung cộng quản lý, và đảng cộng sản VN trở thành một tỉnh bộ trực thuộc đảng CS Trung cộng như đã ghi trong Hiệp Ước? Hẳn nhiên, chúng ta chưa có câu trả lời chuẩn xác, nhưng xem ra có đủ dữ kiện để đặt vấn đề.
Ai cũng biết, VC và TC sau cuộc chiến biên giới (1979) đang gườm nhau trong tư thế, phải chém giết nhau mà sống. Không thể có hòa giải, nói chi đến tình bầu bạn thắm thiết. Bỗng nhiên, CS Đông Ấu, CS Nga sụp đổ. Cộng sản VN trắng mắt bơ vơ. Họ đành làm một cuộc cúi đầu đi chầu Trung cộng. Kết quả, sau chuyến đi với những đôi mắt trắng, bàn chân run. Tập đoàn VC bán nước hớn hở mang về “4 tốt và 16 chữ vàng” chia nhau. Tất cả đều mừng rỡ hơn bố mẹ chết lâu ngày, nay sống lại. Bởi lẽ, môi sứt được vá lại. Cái răng gẫy được thay bằng răng giả. Từ đó, kẻ theo Trung cộng được bảo kê, nâng như nâng trứng để tung mây lướt gió. Kẻ muốn theo xét lại Liên sô như Ủy viên BCT Bách phải chết. Như thế, câu chuyện Thành Đô tự nó không phải chỉ là một thắc mắc lớn trong lòng mọi người. Trái lại, nó phải là cái thòng lọng, là bản án tử, khoác vào cổ dân tộc và lịch sử Việt Nam, nhưng lại là vòng hoa trong cổ cán nhớn theo Tàu! Đó là lý do, từ đó đến nay không có một cấp quyền nào của Việt cộng ngay sau khi nhậm chức mà không phải sang trình diện Trung cộng nhận vòng hoa.
IV. Những sắc dân nào tạo thành nhà nước Trung cộng?
Đây không phải là câu hỏi lạc đề. Tuy nhiên, trong lúc người Việt Nam chờ… Việt cộng buộc cho cái thòng lọng vào cổ và trao cho Trung cộng nắm đầu giây kéo. Chúng ta có lẽ cũng nên đọc lại vài trang sử của Trung Hoa để ngẫm về phận mình mai sau!
Cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) với Tôn Trung Sơn đã mang đến một ý nghĩa to lớn đối với dân tộc TQ và có ảnh hưởng đến các quốc gia trong vùng, trong đó có Việt Nam. Cuộc cách mạng này đã kết thúc nền quân chủ chuyên chế thống trị Trung Quốc qua nhiều nghìn năm. Có thể nói, cuộc Cách Mạng này đã đưa tư tưởng và nền dân chủ nẩy rễ trong công chúng, đồng thời nó cũng nâng cao ý thức Dân Tộc ở Trung Hoa. Tuy nhiên, nó đã không đồng hành theo ước muốn, không đủ khả năng xây dựng vững chắc để đưa TQ đi lên. Trái lại, nó đã đẩy Trung Hoa bước vào một giai đoạn tự xâu xé lẫn nhau. Kết quả, phong trào cộng sản nổi lên. Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời vào tháng 7/1921. Nó bị thảm bại vì Quốc Dân Đảng trước Đệ nhị thế chiến. Nhưng sau đó, lại trở thành kẻ chiến thắng.
Đến tháng 4/1949, “quân đội giải phóng nhân dân Trung cộng” đã vượt sông Trường Giang tấn công vào tận các căn cứ của Quốc Dân Đảng. Cuộc thống trị của Quốc dân Đảng sụp đổ. Cộng sản Trung quốc bắt đầu thiết lập một hệ thống mới trên đất nước này. Từ 21 đến 30-9-1949 Hội Nghị Hiệp Thương được triệu tập tại Bắc Kinh để thông qua cương lĩnh chung và bầu hội đồng chính phủ do Mao trạch Đông làm chủ tịch. Trung quốc từ đây bước vào quần thể đỏ. Ngày 1-10- 1949 nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung cộng chính thức được khai sinh.
Từ đây, Trung quốc dùng một lá cờ màu đỏ, trên đó có năm ngôi sao là biểu tượng cho quốc gia và dân tộc của họ. Nằm trên góc cao gần thân cờ là một ngôi sao lớn, đại diện cho đảng cộng sản cũng là người Hán, kẻ chỉ huy. Rồi lan tỏa về phía trước, nằm thấp hơn theo vòng cung là bốn ngôi sao nhỏ. Bốn ngôi sao này có ý dành cho bốn sắc dân Mãn, Hồi, Mông, Tạng? Về dân số, Trung cộng ngày nay có vào khoảng 1,400 triệu người, được chia ra như sau (theo wikipedia):
1. Người Mãn Thanh, sắc dân đã từng cai trị Trung Hoa từ 1644-1912. Theo công bố của nhà nước Trung cộng hiện nay còn khoảng 10,682,263 người. Tiếng Mãn hầu như không còn được biểu hiệu và xử dụng ở nơi đây.
2. Người Hồi. Bao gồm 18 dân tộc ở Tân Cương, khu tự trị lớn nhất của Trung Quốc với diện tích 1,6 triệu km². Dân số 21,8 triệu người, trong đó có tới một nửa là người Hán gốc Hồi. Người Ngô Nhĩ là sắc dân chính tại đây chỉ còn lại khoảng 8,3 triệu người.
3. Nội Mông. Là khu tự trị dành cho người gốc Mông cổ, Một sắc dân từng lập ra triều đại Nguyên Mông cai trị nước Trung hoa vào thế kỷ 13 và 14. Có diện tích 1,183 triệu km², và dân số 24,7 triệu người. Tuy nhiên, người gốc nội Mông chỉ còn lại khoảng 8,94 triệu. Chiếm 14,7% dân số toàn Khu tự trị...
4. Người Tạng. Sống ở Khu tự trị Tây Tạng có diện tích 1,25 triệu m². Dân số chỉ còn khoảng 5,18 triệu người, trong đó một phần đáng kể đã là người Hán.
5. Người Việt trong quy ước Thành Đô…?
Dân số các sắc tộc khác ít hơn, và cũng không được ghi biểu tượng bằng ngôi sao như sau: Choang 17,17 triệu. Hmong 8,94 triệu. Thổ gia 8.9 triệu, Di 7,76 triệu, Tạng 5,4 triệu… có một số các sắc dân khác với số lượng từ vài ba ngàn người cho đến khoảng hơn 1 triệu người. Riêng sắc dân với tên tự là Hán được ghi là: 1,234 triệu người (wiki). Theo bảng dân số được công nhận chính thức tại Trung cộng, người ta không còn được nghe biết đến các sắc dân Tề, Hàn, Triệu, Ngô, Sở, Tần, Tấn, Ngụy, Yên… nữa. Họ đã mất dấu và mất tên.
Nay, hãy nhìn lá cờ Trung quốc với 5 ngôi sao nhỏ xuất hiện trên đài truyền hình VTV1 khi Nguyễn phú Trọng đi thăm Trung cộng, và trên tay những trẻ thơ VN mặc áo đỏ, đứng trong hàng danh dự ra đón TC Binh khi Y đến Hà Nội xem nó có ý nghĩa gì? Có phải đã đến lúc Việt cộng bắt đầu thực hành những công đoạn nổi trong Hiệp Ước Thành Đô trước khi giao đất và xin cho 90 triệu người Việt Nam được trở thành một sắc dân nữa trong ngôi nhà Trung cộng hay không? Liệu số phận Việt Nam có bị Việt cộng giao cho Trung cộng thu gọn vào trong mục số 5 ở trên với tựa đề: Người gốc Việt trong Trung Quốc đại thống chí hay không?
Dĩ nhiên, câu hỏi này không phải đến hôm nay mới có. Nhưng nó có ngay từ khi Hồ Quang, người Hẹ, sau đổi thành Hồ chí Minh nhờ Trung cộng hỗ trợ mà chiếm được miền bắc vào năm 1954. Tuy nhiên, mãi đến sau hội nghị Thành Đô 1999, nhà nước CS bắc Việt mới dần úp mở sự thật. Trước hết, khi Nguyễn Phú Trọng, thủ lãnh của đảng cộng sản VN trong chuyến sang thăm Bắc Kinh ngày 11 tháng 10 năm 2011, Đài Truyền hình Việt Nam VTV1 của nhà nước CS chính thức phát đi bản tin, tường thuật về cuộc đi Tàu của Trọng, trên đó có kèm theo lá cờ của Trung Quốc với 6 sao. Bản tin làm cho dư luận xôn sao, phản đối, VTV1 đã lặng lẽ gỡ bỏ bản tin với lá cờ trên mạng xuống, mà không có một lời giải thích nào.
Chuyện thứ hai: Giữa Hà Nội, Việt cộng đón Tập cẩm Bình với cờ 6 sao! Chuyện cũ chưa qua, ngày 21/12/2011 Tập cẩm Bình đến Việt Nam, Trọng lại đưa bầy trẻ thơ Việt Nam mặc áo đỏ, ý muốn nói là tương lai của Việt Nam, ra đứng chào đón Bình trong hàng danh dự với cờ đỏ 6 sao! Có người cho rằng, Việt cộng lại dùng cờ sai? Lẽ nào như thế nhỉ? Nếu kẻ tổ chức và người đón, tiếp chỉ 5, 7 tuổi thì đó là chuyện trẻ con không biết, chẳng ai trách. Nhưng đây là chuyện của nhà nước đi đón thượng khách nước ngoài, lẽ nào lại không hay biết chuyện sơ đẳng này? Hơn thế, không phải là cờ của Trung cộng mới có từ vài ba ngày trước. Trái lại, nó đã hiện diện ngay trên miền bắc Việt Nam từ hơn 60 năm qua! Như thế, nó phải có một nguyên do khác. Có người cho rằng, nó sửa soạn cho tương lai của Việt cộng đấy! Bởi lẽ, ngày của năm 2020 như hội ước Thành Đô đã gần kề. Nghe thế, có người từng phục vụ chế độ, giật mình, nóng mặt, trong lúc người dân choáng váng! Tuy nhiên, với nhà nước Việt cộng thì xem ra nó là chuyện rất bình thường, phải đến, chẳng cần một đính chính, hay một lời giải thích nào.
Như thế, ta hãy hỏi xem. Liệu đây có phải là việc tập diễn, sửa soạn hướng đi dọn đường cho Trung cộng vào chiếm ngụ trong năm 2020 không? Bạn là người Việt Nam máu đỏ da vàng, mang trong người huyết thống của Ngô Quyền, Nhị Trưng, Trần hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung hay Lý thường Kiệt… có mừng rỡ khi quê mẹ bị Việt cộng trao tay cho Trung Cộng hay không?
V. Cuộc tràn xuống phương nam.
Thực ra, không phải đến hôm nay, người Việt Nam mới biết đến sức ép, hay bị tràn xuống từ phương bắc, nhưng Lịch sử Việt Nam đã từng ghi lại những cuộc chiến với cái tên như Tống, Hán, Nguyên Mông, Thanh… Và những cuộc tràn bờ từ ngàn năm trước. Và rồi, chính trên mảnh đất hiện hữu này đã có những cuộc chiến, phải được coi là thánh chiến, là dân tộc chiến để cái tên Việt Nam còn tồn tại đến hôm nay.
Tuy nhiên, cuộc tràn xuống phương nam từ phương bắc sau ngày 3-2- 1930, lại phải được coi là một cột mốc điểm lịch sử quan trọng khác của một Việt Nam u mê vào thời cận đại. Bởi lẽ, Trung cộng không dùng quân đội của họ tràn xuống phương nam như xưa để ta dễ nhận biết. Nhưng dùng Hồ Quang, người Hẹ, trong vai Hồ chí Minh dưới lớp áo cộng sản, trong chiêu bài giải phóng để nhuộm đỏ Việt Nam, để đưa Việt Nam vào vòng thống trị của Tàu. Phải nói rằng, đây là một kế hoạch hoàn chỉnh hơn trăm lần con cờ Trần ích Tắc hay Lê chiêu Thống xưa kia. Nó hoàn chỉnh vì ta mất nước mà ta không hề biết rằng mất nước, lại còn vỗ ngực là yêu nước và ca tụng kẻ bán nước. Bởi lẽ:
1. Nếu Hồ chí Minh là Nguyễn tất Thành thì chính Y là người rước voi về giết dân, dày mả tổ. Bằng chứng hiển nhiên là 172000 ngàn người bị Y giết chết rập theo sách lược đấu tố của Tàu trong mùa đấu tố. Kế đến là hơn 4,000,000 người chết, bị thương, khi Y mở ra cuộc chiến từ 45-75 với chiêu bài Độc Lập rồi chống Mỹ cứu nước. Kết quả, chỉ toàn là xương máu Việt đổ ra để mở đường cho Tàu xâm nhập nội địa Việt Nam qua Hiệp ước Thành Đô theo lời xác minh của Nguyễn văn Linh “Biết làm thế là mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng”. Quả thật, việc giết hại nhân dân, đào mả tổ tiên mình, rồi dâng đất nộp thành, xin làm nô lệ cho Trung cộng là một kỳ công vĩ đại không ai có thể làm được, ngoại trừ Hồ chí Minh. Vỗ tay đi!
2. Ở trường hợp Hồ chí Minh là Hồ Quang người Hẹ thì rõ ràng tất cả mọi người Việt Nam chúng ta đã bị lừa đảo vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn, tự tiêu diệt lẫn nhau trong xuốt hơn 70 năm qua. Kết quả, nếu chúng ta không biết nhìn lại nhau, nhận ra sự thật này, thì chính chúng ta, người Việt Nam đã bị rơi vào vòng xiếc do Trung cộng đạo diễn với ý đồ, dùng người Việt giết người Việt. Riêng phần lãnh thổ ở đó sẽ do người Tàu chiếm cứ và đặt vòng cai trị từ 2020 theo chính ước nguyện của tập đoàn Hồ Quang do Đỗ Mười, Nguyễn văn Linh, Phạm văn Đồng… tiếp quản, khẩn tấu.
Với hai thực tế này, lẽ nào người Việt Nam yêu tổ quốc yêu nòi giống của mình lại cúi đầu, khoanh tay đứng hầu? Lẽ nào người Việt Nam vì tổ quốc, vì tiền nhân mình mà không đứng dậy, lột mặt nạ của Y?
30-7-2016
0 nhận xét:
Đăng nhận xét