David Thiên Ngọc (Danlambao) - Vấn đề Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc để kiến quốc an dân sau khi tàn cuộc chiến dưới nhiều hình thức trên thế giới này không hiếm. Tuy nhiên mỗi nơi có một sắc thái khác nhau. Nhìn về đất nước Nam Phi xa ngàn dặm với một Nelson Mandela mà giờ đây sau khi thân xác ông đã trở về với cõi vĩnh hằng nhưng trong lòng người dân Nam Phi ông đời đời bất diệt vì ông đã thành công trên bước đường HGHH Dân Tộc ở Nam Phi, đưa dân Nam Phi đến bờ hạnh phúc và là tấm gương sáng cho những dân tộc còn đang ngập chìm trong áp bức bất công noi theo.
Ngay trong khối Asian cách VN không xa cho mấy đó là Myanmar với một Aung San Suu Kyi cả một đời vì Quốc Gia Dân Tộc của bà, lẫn một vị Tổng Thống đương kim Thein Sein đầy quyền lực nhưng cũng thấy được con đường phía trước vì dân chủ, nhân quyền và hạnh phúc của toàn dân mà ông sẵn sàng đổi mới đất nước trong mấy năm qua và giờ đây ông trao quyền lực về cho nhân dân một cách êm thấm, hòa bình khi nhân dân không còn đứng về phía ông và tập đoàn quân đội nữa. Ông là người mà trước đây được Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng khuyên nhủ rằng ông nên tiến hành dân chủ hóa đất nước càng sớm càng tốt trong một cuộc họp thượng đỉnh Asian được tổ chức tại Hà Nội. Nghe đến đó tôi cầm lòng không được và thốt lên rằng "đĩ già đi khuyên nữ nhi nên giữ cái ngàn vàng, tên tướng cướp đi dạy đạo đức và khuyên mọi người không nên tham lam lấy của người làm của mình."
Ngay tại VN tập đoàn CSVN trong nhiều năm qua cũng đưa ra hình thức HGHHDT mà thật ra đó chỉ là chiêu bài để hòng kéo dài tuổi thọ trước giờ phút cáo chung.
Kính mời quí vị tham khảo chuỗi phân tích và bình luận về chính sách nêu trên của tập đoàn CSVN. Công trình này tôi cũng chia ra nhiều phần để quí vị tiện bề theo dõi và cũng đã được chính giới Quốc Tế cùng nhiều học giả khắp nơi đón nhận.
*
Đập tan âm mưu “Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc” của đảng CSVN
Trước khi đi vào bài viết tôi xin mạn phép đứng ra ngoài quan điểm chính trị để có những lập luận, phân tích và dẫn giải mọi sự việc liên quan đến Hòa Giải, Hòa Hợp Dân Tộc (HGHHDT) được khách quan và công bằng bởi nếu tôi đứng trên vị trí chủ quan và hô hào “Đập tan âm mưu HGHHDT” của đảng CSVN thì e rằng không thuyết phục đại chúng. Trong bài này tôi chỉ đưa ra và phân tích mọi sư kiện và hoàn cảnh để có sự chia ly, rời bỏ quê hương Tổ Quốc của 4 triệu người Việt Hải Ngoại mà người viết là một trong số đó, cùng nội tình, nỗi lòng của hơn 80 triệu dân VN Quốc nội trong 40 năm qua. Như vậy sau khi nhận rõ những lập luận, phân tích sự kiện trong bài viết này lúc đó tôi tin rằng cộng đồng người Việt Hải Ngoại sẽ nhận chân sâu sắc cái âm mưu của CSVN trong chủ trương HGHHDT mà quyết tâm cùng nhau đập tan âm mưu trên của họ. Trong hơn 10 năm qua Bộ Chính Trị CSVN đã ra nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26.3.2004 nhắm vào cộng đồng người Việt hải ngoại. Và gần đây vì nhận thấy sự vô tác dụng của NQ36 mà BCT CSVN đã ra thêm chỉ thị 45-CT/TW ngày 19.5.2015 để thúc đẩy và hâm nóng lại nghị quyết trên trong ý đồ bám víu vào “khúc ruột ngàn dặm” hầu kéo dài tuổi thọ. Vì rằng với lực lượng 4 triệu người Việt Hài Ngoại là một thế lực không hề nhỏ về mọi mặt, có tác động phần nào trong sự sống còn của đảng CSVN.
Để đi sâu vào nội dung ta cần phải biết rõ rằng nguyên nhân từ đâu để có hận thù (điều không thể không có trong chiến tranh VN), mâu thuẫn, nợ nần về tinh thần, tài sản từ vật chất lẫn máu xương cùng nỗi đau khôn xiết của hàng vạn gia đình tan đàn xẻ nghé, thân xác chôn vùi nơi đầm bãi, núi rừng sông biển... để cho ngày nay phải đặt ra vấn đề “Hòa Giải”. Đồng thời trong việc xử lý cái hệ lụy từ hận thù, nợ nần mọi mặt nêu trên như thế nào để đi đến xóa bỏ? Rồi đặt ra hai từ “Hòa Hợp”? dĩ nhiên là thuận cả đôi bề về tư tưởng tình cảm, không kể nợ máu xương vì khoản này khó mà trả cho được, còn phần tài sản vật chất cùng các quyền của người dân đã bị tước đoạt thì CSVN đã khắc phục hậu quả đến đâu trong quá trình “Hòa Giải” rồi mới đi tiếp bước thứ hai là “Hòa Hợp”! Cũng giống như trong quá trình “ly hôn” của đôi vợ chồng. Khi đã ổn thỏa trong bước “hòa giải” ở tòa án có nghĩa là “hòa giải thành”, xóa tan mâu thuẫn thì mới “hòa hợp” trở lại được. Ngược lại thì “anh đi đường anh, tôi đường tôi”.
Đi vào phân tích sự kiện:
Phần I-Nguyên nhân và mục đích:
Để phân tích cho thấu đáo trong vấn đề Hòa Giải rồi đi đến Hòa Hợp cho dân tộc VN cả trong và ngoài nước sau cuộc chiến tương tàn nồi da xáo thịt, ta phải tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả. Trong trường hợp này ta dùng phạm trù “nguyên nhân” thì theo tôi có lẽ nó chưa lột hết nội hàm mà phải là “phương tiện”. Về phía cộng sản Bắc Việt (CSBV) đánh tráo khái niệm “phương tiện” ra “nguyên nhân” và lập luận rằng nguyên nhân xảy ra cuộc chiến trên là do “Đế Quốc Mỹ xâm lược MNVN” và “Ngụy Quyền SG” (họ ám chỉ VNCH) làm tay sai bán nước cho Đế Quốc Mỹ. Do đó CSBV phải kháng chiến chống Mỹ-Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào - và đạt được kết quả là “Giải phóng MNVN” và là mục đích cuối cùng, là “cứu cánh” mà thâm tâm đích thực là “cưỡng chiếm MNVN”. Sau khi “cưỡng chiếm MNVN” CSBV tiến hành chủ trương “cải tạo công thương nghiệp”, “cải tạo tư sản mại bản”... Cái phương tiện này che giấu cho hành động “cướp trắng”, “cướp có chính sách, chủ trương” được đem ra áp đặt đối với người dân MNVN với mục đích mơ hồ điếm xảo, cứu cánh ngụy tạo là “đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giai cấp bóc lột” mà mục đích chính là thu vén tất cả tài sản cướp được về cho cá nhân, bè nhóm, tập đoàn CSVN nói chung cho cả CS Bắc và Nam VN (thành phần nhảy núi, ra bưng và số cán bộ đảng viên không đi tập kết ra Bắc sau năm 1954). Riêng về tài sản quốc gia VNCH thì sau khi tập đoàn CSVN tịch thu và tự chia chác cho nhau còn lại sung công quỷ một số cho có gọi là... cho tài sản đất nước XHCN như vụ 16 tấn vàng cướp của nhân dân MNVN mà đại diện là Chính phủ VNCH đến nay vẫn còn là dấu hỏi lớn. Ở giai đoạn này CSVN “lấy cứu cánh biên minh cho phương tiện”.
Về phần con người thì CSVN lùa người dân cùng hầu hết gia đình vợ/chồng con của “ngụy quân, ngụy quyền” (từ CSVN dùng) đưa đi KTM với mỹ từ là “cải tạo lao động XHCN”, “lao động là vinh quang”, nhưng thực chất, mục đích cuối cùng là chiếm đoạt tài sản, nhà cửa ở thành phố của những gia đình nạn nhân nói trên.
Về thành phần quân cán chính VNCH thì CSVN lùa vào các “trại tập trung cải tạo” mà đúng nghĩa là những “trại tù CS” mà họ gọi từ hoa mỹ là “cải tạo tư tưởng, văn hóa, chính trị” để hòa nhập vào xã hội mới XHCN. Nhưng mục đích cuối cùng là “trả thù” một cách dã man và hèn hạ. Từ “dã man” này được thể hiện qua hàng trăm ngàn nạn nhân (quân cán chính VNCH) bị bức hại, giết chết lần mòn, đày ải xác thân mà rất nhiều người phải gởi nắm xương tàn nơi bìa rừng, đầu suối mà cho đến ngày nay vợ con còn chưa tìm thấy được. Một số sống sót họ kể lại sau khi được phóng thích và được sự nhìn nhận, lên án của các tổ chức phi chính phủ và các chính phủ văn minh, dân chủ trên thế giới nghe, thấy và công nhận.
Một điều thiết tưởng tôi cũng không thể quên nhắc lại nơi đây rằng, sau khi tàn cuộc chiến xáo thịt nồi da anh em Nam Bắc thì CSVN không những cầm tù những người đang sống, trước đây có ít nhiều tham gia trong chính quyền VNCH như đã nêu trên mà CSVN còn “cầm tù luôn những người đã khuất” để trả thù. Cụ thể là nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Sau cái ngày 30.4 đen ấy nhà cầm quyền CSVN ngay tức khắc đập ngã bức tượng “Thương Tiếc” cao 5m hình tượng một quân nhân ngồi tưởng nhớ đồng đội đã nằm xuống, đặt ngay lối vào nghĩa trang và phong tỏa cả khu vực hơn 16.000 ngôi mộ này. Rồi thời gian trôi qua mấy chục năm, rừng hóa nghĩa trang, rêu phong những ngôi mộ và lối đi cây cỏ đã ngập đầu. Một nhà tù trên 16.000 tù nhân là những bộ xương nằm dưới ba tấc đất “đói lạnh” mà thân nhân không được “thăm nuôi” cho dù là một nén hương. Có nhiều thân nhân cố lén chui vào nghĩa trang trong buổi hoàng hôn chạng vạng mong qua mắt được những kẻ cai ngục mà đặt xuống mộ một nén hương lòng, nhưng khó mà tìm ra ngôi mộ chí, phần cây lá hoang sơ, rêu phủ nhạt nhòa, phần vì những tấm bia có còn đâu sau những lần tập bắn của các tân binh cộng sản VN! Dân ta từ xưa có câu “nghĩa tử là nghĩa tận”, nhưng chữ “Nghĩa”, chữ “Nhân” hoàn toàn không có vị trí trong trái tim người cộng sản.
Trong các trận chiến trên toàn cõi hành tinh này cho dù đạn bom đang nổ nhưng hội Hồng Thập Tự quốc tế vẫn cứu thương và chăm sóc những thương binh mà không phân biệt giới tuyến và tình thương vẫn được chia đều. Trước năm 1975 tại Tổng Quân Y Viện Cộng Hòa của VNCH hay những bệnh viện dã chiến lẫn chính qui của Mỹ vẫn có những cán binh cộng sản được nằm trị thương sau khi được đưa về từ chiến trận mà không bị phân biệt đối xử trong chăm sóc và chữa trị!
Thêm một điều nữa là có hàng trăm ngàn người trong cả triệu quân, cán chính VNCH bị tập trung cải tạo (ngục tù) bỏ mình trên khắp núi rừng của hàng trăm trại giam trên khắp mọi nơi từ Nam ra Bắc và thi thể họ được lấp tạm chỉ là những nấm mộ sơ sài bên bìa rừng bờ suối mà thân nhân khó bề tìm được cho đến ngày nay, các dấu tích đơn sơ được ghi lại nơi mộ phần cũng đã mai một, mất dấu bởi màu thời gian. Thế nhưng giai đoạn trước năm 2007 các tổ chức nhân đạo thế giới mà tích cực nhất là Tổng Hội H.O Hoa Kỳ sau được đổi tên là Vietnamese American Foundation (VAF) lập ra chương trình “Tử sĩ trở về” (The Returning Casualty) đã nhiều lần qua lại ngoại giao xin nhà cầm quyền CSVN cho phép đến tận nơi những trại “tù cải tạo” trước đây giờ đã phế bỏ để kiếm tìm, qui tập hài cốt của các nạn nhân, trong đó đặc biệt có sự góp phần trực tiếp không nhỏ của các sĩ quan VNCH đã từng là tù nhân, lê thân suốt các trại tù cộng sản và cũng đã tận mắt chứng kiến và cũng tận tay chôn cất đồng đội, bạn tù cùng cảnh ngộ. Chương trình trên được thực hiện phần lớn là nhờ sự ủng hộ của chính phủ Mỹ cùng các hội luật sư Quốc Tế mà cụ thể là Ls. Robin Mitchell tích cực tác đông đến các cơ quan thuộc bộ Ngoại Giao CSVN, Ls. Wesley Coddou giúp về các thủ tục pháp lý Ngoại Giao và nhất là nỗ lực không mệt mỏi của Tổng Hội H.O Hoa Kỳ và cuối cùng Bộ Ngoại Giao, nhà cầm quyền CSVN đã chấp thuận cho VAF thực hiện vào tháng 10/2007. Thế nhưng đến tháng 10/2012, CSVN mà nhất là giới cầm quyền tỉnh Phú Yên đã hủy bỏ quyết định trên và không cho phép VAF thực hiện chương trình “Tử sĩ trở về” nữa với nhiều lý do, trong đó có hiện diện của sự căm thù ích kỷ hèn mọn đồng thời trong lúc thực hiện chương trình trên, VAF có tiến hành xét nghiệm ADN của hài cốt để khi trao cho thân nhân không bị sai lầm. Tuy nhiên kết quả xét nghiệm ADN còn cho biết được nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân. Đây là nguyên nhân chính mà CSVN không cho VAF tiếp tục chương trình vì đa phần nạn nhân chết là do tác động từ ngoại lực. Tuy nhiên từ tháng 10/2007 đến tháng 10/2012 sau năm năm thực hiện chương trình “Tử sĩ trở về” VAF cũng đã tìm được 500 ngôi mộ và đã trao cho thân nhân hơn 220 bộ hài cốt để về cải táng. Số còn lại chưa tìm ra được thân nhân nên tạm thời được đưa về các cơ sở tôn giáo, chùa chiền, nhà thờ để thờ phượng. Con số 500 ngôi mộ mà VAF tìm được rất là khiêm tốn trước sự bưng bít, ém nhẹm của CSVN. Tuy nhiên ngày 29.1.2001 báo Orange County Register đăng công bố kết quả nghiên cứu về các trại tù và phỏng vấn các nhân chứng cho thấy có khoảng một triệu người ở MNVN (quân cán chính VNCH) bị CSVN giam giữ không qua xét xử trong đó có hơn 165 ngàn người bị chết đang lúc bị tù đày trong hơn 150 trại tù của CSVN sau ngày Sài Gòn bị cướp.
Về chính sách xã hội toàn MNVN, sau ngày 30.4.1975 CSVN sa thải, sách nhiễu, đày ải hầu như toàn bộ công nhân viên kể cả các thành phần trí thức, khoa học kỹ thuật không liên quan đến quân sự, chính trị, có một số ít thuộc thành phần trí thức trong ngành giáo dục và khoa học kỹ thuật được lưu dụng nhưng trong tình trạng bị phân biệt đối xử, quản lý và theo dõi với chính sách “tẩy não”. Nói chung là đại bộ phận các đơn vị, tổ chức trong hoạt động xã hội lẫn bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, các cấp, các cơ sở của chính phủ VNCH đều chung một hoàn cảnh. Một con số rất lớn phải bị thất nghiệp, bị quẳng ra lề XH. Nhiều người lâm vào hoàn cảnh bi đát, nghiệt ngã thiếu thốn chưa nói là khốn cùng.
Thay vào đó là một số rất lớn cán bộ đảng viên CSVN thoát ra từ rừng núi xuống và từ Bắc tràn vào để lấp chỗ, thay thế điều hành bộ máy chính quyền MNVN mục đích xây dựng xã hội mới chỉ là hình thức mà nội dung và mục đích chính là cướp đoạt, thu vén cho cá nhân và gây thanh thế, bè nhóm để ngồi trên đầu người dân MNVN mà cai trị và bóc lột lâu dài. Cái giai cấp (bóc lột) mà họ đã và đang đấu tranh để xóa bỏ chỉ áp dụng cho tha nhân còn đối với họ (CSVN) lại là bản chất, là thuộc tính của tập đoàn mình.
Ngoài số quân cán chính VNCH bị CSVN trả thù khốc liệt thì hàng triệu người dân từ cụ già đến đàn bà trẻ nít phải liều chết băng rừng, vượt biển tìm 1 phần sống trong 10 phần chết cũng phải đứt ruột bỏ quê hương mồ mả người thân, vợ xa chồng cha xa con mà chạy trốn, tránh “họa cộng sản” để ngày nay được tô hồng với mỹ từ đầy yêu thương “khúc ruột ngàn dặm”!!!
Về phía chính quyền VNCH thì cuộc chiến trên hai mươi năm khói lửa, máu xương là một cuộc chiến vì nhân quyền, dân chủ và độc lập. Người lính VNCH bảo vệ tổ quốc trước sự xâm lăng của CSBV làm tay sai cho Nga-Tàu nhằm nhuộm đỏ Đông Nam Á theo cuồng vọng của CS Đệ tam Quốc tế. Chưa có một người lính hay cán bộ nào của VNCH xâm phạm lãnh thổ, tài sản vật chất của nhân dân Miền Bắc VN mà chỉ tự vệ, bảo vệ những gì thuộc về VNCH trong suốt hơn 20 năm cuộc chiến. Như vậy cái mục đích cuối cùng trong cuộc chiến của cả hai bên thì phần chính danh thuộc về bên nào? câu trả lời dành cho toàn dân VN để được khách quan. Đồng thời cái nguyên nhân từ đâu để có cuộc chiến thì không cần nói ra mà qua các dẫn chứng tự nó đã có câu trả lời.
(Còn tiếp)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét